Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

Những triệu chứng của cơn đau thắt ngực


Đau ngực là một triệu chứng thường gặp có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân cần phải được can thiệp nhanh chóng chẳng hạn như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, hoặc bóc tách động mạch chủ. Những nguyên nhân gây đau ngực khác có thể không cần can thiệp ngay lập tức bao gồm co thắt thực quản, đau do túi mật, viêm thành ngực. Chẩn đoán chính xác là yếu tố quan trọng giúp điều trị đúng cho những bệnh nhân bị đau ngực.
Những triệu chứng của cơn đau thắt ngực

Đau thắt ngực là gì? Những triệu chứng của đau thắt ngực

Cơn đau thắt ngực là tình trạng khó chịu ở ngực xảy ra khi sự cung cấp máu có chứa oxy đến một vùng nào đó của cơ tim giảm đi. Trong hầu hết các trường hợp, sự thiếu cung cấp máu là do hẹp các động mạch vành do xơ hóa động mạch.
Cơn đau thắt ngực thường cho những cảm giác như:
  • Bị đè ép
  • Nặng
  • Bóp nghẹn
  • Co xiết, hoặc
  • Đau dọc theo ngực, đặc biệt là phía sau xương ức
  • Cơn đau thường lan đến cổ, quai hàm, cánh tay, lưng, hoặc thậm chí là răng.
Bệnh nhân cũng có thể cảm thấy:
  • Ăn không tiêu
  • Bỏng rát ngực
  • Yếu ớt
  • Vã mồ hôi
  • Buồn nôn
  • Chuột rút, và
  • Khó thở
Cơn đau thắt ngực thường xảy ra sau khi bệnh nhân gắng sức, trải qua những stress về cảm xúc nặng nề, hoặc sau khi ăn quá nhiều. Trong những lúc như vậy, cơ tim sẽ cần nhiều oxy hơn mức mà các động mạch vành bị hẹp có thể cung cấp. Cơn đau thắt ngực thường kéo dài từ 1 đến 15 phút và giảm đi bằng cách nghỉ ngơi hoặc đặt thuốc nitroglycerin dưới lưỡi. Nitroglycerin có tác dụng làm dãn các mạch máu và làm giảm huyết áp. Cả nghỉ ngơi lẫn nitroglycerin đều có tác dụng là giảm nhu cầu oxy của cơ tim, do đó làm giảm đau thắt ngực.
Cơn đau thắt ngực được chia ra làm 2 loại: 1) ổn định hoặc 2) không ổn định.
Cơn đau thắt ngực ổn định
Là loại cơn đau thắt ngực thường gặp nhất. Những người bị đau thắt ngực ổn định là những người có mức khởi điểm xuất hiện các triệu chứng đau thắt ngực giống nhau và các triệu chứng này một phần nào đó có thể tiên đoán được (chẳng hạn như cơn đau sẽ xuất hiện sau khi người bệnh đi bộ được một khoảng nhất định nào đó). Đối với hầu hết bệnh nhân, các triệu chứng sẽ xuất hiện khi gắng sức và thường kéo dài ít hơn 5 phút. Chúng có thể giảm đi bằng cách nghỉ ngơi hoặc bằng cách sử dụng thuốc, chẳng hạn như nitroglycerin ngậm dưới lưỡi.
Cơn đau thắt ngực không ổn định
Cơn đau thắt ngực không ổn định ít gặp hơn và có mức độ nặng nề hơn. Các triệu chứng nặng hơn và khó tiên đoán hơn so với cơn đau thắt ngực ổn định. Ngoài ra, cơn đau xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài lâu hơn, vẫn còn tồn tại ngay cả khi nghỉ ngơi và không giảm bớt khi ngậm nitroglycerin dưới lưỡi (hoặc bệnh nhân sẽ cần phải sử dụng nhiều nitroglycerin hơn bình thường). Cơn đau thắt ngực không ổn định không giống với nhồi máu cơ tim nhưng bạn cần phải đến gặp bác sĩ hoặc đến phòng cấp cứu ở bệnh viện ngay lập tức do cần phải thực hiện gấp những biện pháp kiểm tra tim chuyên sâu hơn. Cơn đau thắt ngực không ổn định thường là dấu hiệu báo trước của nhồi máu cơ tim.
Theo yhoc-net

Những nguyên nhân gây đau thắt ngực

Cơ thể chúng ta ví như một cỗ máy, khi trung khu điều khiển bị sự cố, cỗ máy sẽ ngừng hoạt động.

Nguyên nhân thường gặp nhất gây đau thắt ngực là bệnh mạch vành. Nguyên nhất ít gặp hơn là do co thắt các động mạch vành.
Những nguyên nhân gây đau thắt ngực

Bệnh mạch vành

Các động mạch vành cung cấp máu giàu oxy cho cơ tim. Bệnh động mạch vành xuất hiện khi cholesterol tích tụ lại trên thành động mạch làm hình thành những chất cứng và dày được gọi là những mảng cholesterol. Sự tích tụ các mảng cholesterol này lâu dần sẽ gây ra hẹp các động mạch vành, quá trình này được gọi là quá trình xơ hóa động mạch. Quá trình xơ hóa động mạch có thể tăng tốc dưới tác động của việc hút thuốc lá, tăng huyết áp, tăng nồng độ cholesterol và đái tháo đường. Khi các động mạch vành trở nên hẹp hơn 50% đến 70% thì chúng sẽ không còn đáp ứng được nhu cầu oxy của cơ tim trong lúc vận động hoặc trong lúc stress nữa. Cơ tim thiếu oxy sẽ gây ra đau ngực (đau thắt ngực).

Co thắt động mạch vành

Thành của các động mạch được bao bọc bởi các sợi cơ. Sự co thắt nhanh của các sợi cơ này có thể làm cho các động mạch hẹp đột ngột. Sự co thắt của các động mạch vành này làm giảm lượng máu đến cơ tim và gây đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực gây ra do co thắt mạch vành được gọi là đau thắt ngực Prinzmetal. Đau thắt ngực Prinzmetal thường xảy ra lúc nghỉ ngơi, thường là vào buổi sáng sớm. Sự co thắt có thể xảy ra ở những động mạch vành bình thường hoặc ở những động mạch vành bị xơ hóa.
Co thắt động mạch vành cũng có thể có nguyên nhân do sử dụng/lạm dụng cocaine. Co thắt thành động mạch gây ra do cocaine có thể rất mạnh và nó thật sự có thể gây ra một cơn nhồi máu.

Những nguyên nhân khác cũng có thể gây ra đau ngực

Khi điều trị cho những bệnh nhân bị đau ngực, các bác sĩ sẽ phân biệt cơn đau ngực này có phải là do cơ tim thiếu oxy hay không (cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim), hoặc nó là do một nguyên nhân khác. Nhiều nguyên nhân có thể gây đau ngực tương tự với đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim được đem ra xem xét, bao gồm một số ví dụ sau:
Viêm màng phổi: viêm lớp màng bao xung quanh phổi có thể gây đau chói ở ngực, tăng lên khi thở sâu và ho. Bệnh nhân thường cảm thấy khó thở, một phần là do họ cố gắng thở nông để làm giảm cơn đau ngực lại. Nhiễm virus là nguyên nhân gây viêm màng phổi thường gặp. Những tình trạng viêm hệ thống khác, chẳng hạn như lupus hệ thống, cũng có thể gây viêm màng phổi.
Viêm màng ngoài tim: là tình trạng viêm của lớp màng bao bên ngoài tim. Triệu chứng của viêm màng ngoài tim tương tự như viêm màng phổi.
Viêm phổi: là tình trạng nhiễm vi trùng của phổi gây sốt và đau ngực. Đau ngực trong viêm phổi do vi trùng là do sự kích ứng hoặc sự nhiễm trùng của màng phổi gây ra.
Thuyên tắc phổi: là tình trạng các cục máu đông (huyết khối) đi từ các tĩnh mạch ở vùng chậu hoặc ở chân lên đến phổi gây bít tắc. Thuyên tắc phổi có thể gây chết mô phổi (nhồi máu phổi). Nhồi máu phổi có thể gây kích ứng màng phổi, gây đau ngực tương tự như viêm màng phổi. Một số nguyên nhân thường gặp là do huyết khối tĩnh mạch sâu (bất động kéo dài, được phẫu thuật gần đây, chấn thương chân, nhiễm trùng vùng chậu).
Tràn khí màng phổi: những túi khí nhỏ trong nhu mô phổi (phế nang) có thể tự động vỡ ra gây tràn khí màng phổi. Các triệu chứng của tràn khí màng phổi bao gồm: đau chói ở ngực đột ngột, nặng nề và khó thở. Một nguyên nhân thường gặp nhất gây tràn khí là khí phế thũng nặng.
Sa van hai lá: Sa van hai lá là bất thường của van tim thường gặp, xuất hiện ở 5% đến 10% dân số. Sa van hai lá thường gặp nhất ở những phụ nữ từ 20 đến 40 tuổi. Đau ngực do sa van hai lá thường là đau chói nhưng không nặng nề. Không giống như cơn đau thắt ngực, đau ngực do sa van hai lá hiếm khi diễn ra trong khi hoặc sau khi luyện tập, và thường không đáp ứng với nitroglycerin.
Bóc tách động mạch chủ: Động mạch chủ là mạch máu chính mang máu từ tâm thất trái phân phối cho tất cả phần còn lại của cơ thể. Bóc tách động mạch chủ (rách thành động mạch chủ) là một tình trạng cấp cứu đe dọa mạng sống. Bóc tách động mạch chủ có thể gây đau ngực và lưng nặng nề, không giảm. Những người trẻ tuổi bị bóc tác động mạch chủ thường cũng bị hội chứng Marfan, là một bệnh di truyền trong đó một dạng bất thường của một loại protein cấu trúc có tên là collagen gây yếu thành động mạch chủ. Những bệnh nhân lớn tuổi hơn thường bị bóc tác động mạch chủ là do kết quả của tình trạng tăng huyết áp mạn tính, thêm vào đó là tình trạng cứng lên toàn thể của các động mạch (xơ cứng động mạch).
Viêm sụn sườn, gãy xương sườn, co thắt hoặc căng cơ: Những cơn đau có nguồn gốc từ thành ngực có thể là do cơ bị co thắt hoặc căng quá mức, viêm sụn sườn, hoặc gãy xương sườn. Cơn đau ở thành ngực thường là đau lói và liên tục. Nó thường nặng hơn khi di chuyển, ho, thở sâu, đè ép trực tiếp lên khu vực này. Co thắt hoặc căng cơ quá mức có thể là do xoay hoặc uốn người quá mức. Các khớp giữa các xương sườn và sụn cạnh xương ức có thể bị viêm, tình trạng này được gọi là viêm sụn sườn. Gãy xương sườn có thể do chấn thương hoặc do ung thư cũng có thể gây ra đau ngực đáng kể.
Chèn ép dây thần kinh: các gốc thần kinh bị chèn ép do các mấu xương khi chúng đi ra khỏi tủy sống cũng có thể gây đau. Chèn ép dây thần kinh còn gây yếu và tê phần trên cánh tay và ngực.
Bệnh Zona (các dây thần kinh bị nhiễm herpes zoster): Các dây thần kinh bị kích thích bởi nhiễm trùng gây đau ngực vài ngày trước khi nổi mẩn.
Co thắt và trào ngược thực quản: Thực quản là một ống cơ dài nối miệng với dạ dày. Những chất chứa trong dạ dày và acid có thể bị trào ngược lên thực quản gây đau ngực. Co thắt các cơ của thực quản cũng có thể gây đau ngực có thể không phân biệt được với đau ngực do cơn đau thắt ngực hoặc do nhồi máu cơ tim. Nguyên nhân gây co thắt cơ thực quản không được biết rõ. Đau do co thắt thực quản cũng có thể đáp ứng với nitroglycerin tương tự như cơn đau thắt ngực.
Đau do túi mật: Các sỏi mật có thể làm tắc nghễn túi mật hoặc ống mật chủ gây ra đau nặng nề ở vùng bụng trên, lưng, và ngực. Cơn đau này đôi khi cũng có thể tương tự với cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim.
Lo lắng và cơn hoảng loạn: lo lắng, trầm cảm và những cơn hoảng loạn đôi khi cũng có thể đi kèm với đau ngực kéo dài từ vài phút đến vài ngày. Cơn đau có thể sắc hoặc âm ỉ. Nó thường đi kèm với khó thở, hoặc không thể thở sâu được. Những stress về cảm xúc có thể làm cơn đau tăng lên, nhưng cơn đau thường không liên quan đến gắng sức và không giảm đi khi sử dụng nitroglycerin. Bệnh nhân thường thở quá nhanh (tăng thông khí), gây hoa mắt, tê, và ngứa ran ở môi và các ngón tay. Những yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành thường không thấy ở những bệnh nhân này. Do không có xét nghiệm gì dùng để chẩn đoán cơn hoảng loạn nên bệnh nhân bị đau ngực thường được làm các kiểm tra để loại trừ bệnh mạch vành và những nguyên nhân gây đau ngực khác trước khi xác định chẩn đoán là đau ngực do hoảng loạn
Theo Ykhoa-net

Đau thắt ngực kéo dài, coi chừng bị nghẽn mạch vành


Chủ quan với những cơn đau thắt ngực, nhiều người chưa kịp đến bệnh viện đã tử vong. Sự nguy hiểm của bệnh lý tim mạch được các bác sĩ đưa ra thảo luận tại hội thảo khoa học trưa 9/7.

Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Thành Vinh, Giám đốc Y khoa Bệnh viện Tâm Đức (TP HCM) cho biết, nhồi máu cơ tim cấp do hội chứng mạch vành cấp gây nên. Người bị bệnh thường trở nặng rất nhanh vì thiếu máu cơ tim cấp tính (giảm dòng máu đến cơ tim), trong đó cơ chế sinh bệnh chủ yếu là do huyết khối động mạch vành; mảng xơ vữa động; rối loạn chức năng dãn mạch của nội mạc.
Huyết khối trong động mạch vành là nguyên nhân chính gây nhồi máu cơ tim. Ảnh: Cao Lâm.
"Có đến 50% số bệnh nhân lên cơn nhồi máu cơ tim cấp tử vong trước khi tới được bệnh viện. Nguyên nhân chủ yếu là do người bệnh chủ quan không đi khám khi thấy cơ thể có triệu chứng khác thường", ông Vinh nói.
Theo các bác sĩ chuyên khoa tim mạch, biểu hiện thường thấy của hội chứng động mạch vành là người bệnh thường có cảm giác bị nén, ép, nặng ngực. Một số người thấy khó chịu ở phần trên cơ thể, đau hoặc khó chịu ở cả hai cánh tay, lưng, cổ, hàm, hoặc bụng. Không ít trường hợp thấy khó thở, đổ mồ hôi, buồn nôn, và choáng váng.
Tỷ lệ tử vong tuy cao, song theo tiến sĩ Hồ Huỳnh Quang Trí, trưởng khoa Hồi sức, Viện Tim TP HCM, bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp tính có thể có kết quả điều trị tốt bằng nhiều phương pháp. Trong đó hiệu quả nhất là sử dụng các loại thuốc điều trị kháng đông huyết khối.
"Chính vì thế, để tránh tình trạng tử vong trên đường đi cấp cứu vì nhồi máu cơ tim cấp, khi thấy có biểu hiện như trên, bệnh nhân cần nhanh chóng đi đến cơ sở y tế để được thăm khám", ông Trí khuyên.
Khẳng định các phương pháp điều trị ngày càng tiên tiến giúp nhiều bệnh nhân thoát hiểm, những bác sĩ chuyên khoa tim mạch vẫn cho rằng việc phòng bệnh vẫn là cần thiết hơn cả.
"Không hút thuốc, thường xuyên kiểm soát huyết áp, tiểu đường, tập thể dục, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, duy trì trọng lượng cơ thể hợp lý... là những cách thiết thực nhất giúp giảm nguy cơ mắc bệnh lý tim mạch, đặc biệt là hội chứng mạch vành", tiến sĩ Vinh khuyến cáo.
Cao Lâm

Tự phát hiện cơn đau thắt ngực


Nếu thấy leo cầu thang hay vác một vật nặng cũng đủ khiến bạn lên cơn đau thắt ngực thì hãy đi khám ngay nhé.

Khi xuất hiện cơn đau tức ngực, người bệnh có cảm giác như có vật nặng chèn ép vào ngực rất khó chịu, một số trường hợp cảm giác đau như bóp vào tim, đau rát, đau như cứa.
Đau thắt ngực là gì?
Đau thắt ngực là một thuật ngữ y học, dùng để chỉ triệu chứng của bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ. Nguyên nhân gây bệnh là một nhánh nhỏ của động mạch vành bị hẹp, làm cho một vùng cơ tim không được cấp máu đầy đủ nên không đảm bảo nuôi dưỡng cơ tim.
Tuy nhiên, nhiều người bệnh cho rằng đau thắt ngực là cơn đau có cảm giác như thắt lại ở vùng ngực. Thực tế có rất nhiều cơn đau như vậy nhưng lại không phải do thiếu máu cơ tim cục bộ nên không được gọi là cơn đau thắt ngực. Ví dụ như, đau do các bệnh lý khác ở tim, ở phổi, ở thực quản, ở dạ dày, ở xương sườn, ở thần kinh, và ở cơ...
Cơn đau thắt ngực thường tái diễn nhiều lần, mỗi cơn đau thường kéo dài từ 2 đến 10 phút. Cơn đau quá ngắn dưới 1 phút hoặc quá dài trên 15 phút, thường không phải là đau thắt ngực.
Những người có nguy cơ đau thắt ngực
- Nam giới chiếm 80%, xuất hiện ở tuổi trên 40. Nữ giới xuất hiện ở tuổi trên 45.
- Người mắc các bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường.
- Chế độ ăn quá nhiều chất béo.
- Có thói quen hút thuốc lá, ít vận động, hay phải lo nghĩ nhiều.
- Gia đình có người bị đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Khi nào xuất hiện cơn đau?
Đau thắt ngực xuất hiện sau một hoạt động gắng sức như, làm việc nặng, chạy, leo dốc, leo cầu thang, quan hệ tình dục... Nếu cơn đau xuất hiện khi nghỉ ngơi, thư giãn, ngủ... thường không phải là đau thắt ngực.
Yếu tố tâm lý như, xúc động mạnh, bực tức, cáu giận, lo sợ... cũng có thể là nguyên nhân xuất hiện cơn đau.
Ngưỡng đau là mức độ gắng sức của người bệnh để xuất hiện cơn đau. Ví dụ như đau xuất hiện sau mỗi lần đi bộ được đúng 1km. Động mạch vành càng hẹp thì ngưỡng đau càng thấp, có những bệnh nhân chỉ vận động tăng lên một chút là đã xuất hiện cơn đau.
Đa số bệnh nhân có ngưỡng đau ổn định hay còn gọi là cơn đau thắt ngực ổn định. Ví dụ như khi leo cầu thang lên đến tầng 3 là xuất hiện cơn đau, sáng chạy thể dục đến đúng một địa điểm là thấy đau, xách đến xô nước thứ 2 là thấy đau.
Một số bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định. Đó là biểu hiện của bệnh càng ngày càng nặng lên, các cơn đau xuất hiện dày lên, đau dữ dội hơn. Đau thắt ngực không ổn định rất nguy hiểm vì khó phân biệt với nhồi máu cơ tim.
Vị trí xuất hiện cơn đau
Đa số đau xuất phát từ giữa ngực ngay sau xương ức, hoặc bên ngực trái vùng trước tim. Sau đó đau lan từ ngực lên vai trái. Nếu lan xa hơn sẽ xuống cánh tay trái, cẳng tay trái, ngón tay trái và thường là ngón út. Số ít trường hợp lan lên cổ, tay phải, thượng vị nhưng không bao giờ lan xuống đến rốn.
Tự cắt cơn đau như thế nào?
Khi đang hoạt động gắng sức mà xuất hiện cơn đau, phải tự dừng ngay hoạt động lại và nghỉ ngơi, cơn đau sẽ hết sau vài phút.
Nên chuẩn bị sẵn thuốc Nitroglycerin trong túi, khi xuất hiện cơn đau liền ngậm ngay một viên, cơn đau sẽ hết sau vài phút.
Điều trị cơn đau thắt ngực
Khi xuất hiện những dấu hiệu như mô tả trên, người bệnh cần đến ngay các trung tâm y tế để được các bác sĩ khám và chẩn đoán xác định cơn đau thắt ngực.
Hiện nay có rất nhiều thuốc tốt để điều trị và dự phòng cơn đau thắt ngực, nhưng cần phải có chỉ định và theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc chuyên khoa. Những trường hợp động mạch vành hẹp nặng, nguy cơ nhồi máu cơ tim, các thầy thuốc có thể tiến hành nong động mạch vành, đặt giá đỡ động mạch vành, phẫu thuật làm cầu nối để tăng cường lưu thông máu. Các phương pháp này cần phải có trình độ chuyên môn rất cao, nhưng đều đã triển khai được ở các trung tâm tim mạch lớn trong nước.
Phòng cơn đau thắt ngực
- Chế độ ăn giảm mỡ và muối, không hút thuốc lá.
- Tăng cường luyện tập thể dục và vận động thân thể.
- Điều trị tốt các bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường.
BS Trần Văn Phúc
BV Xanh Pôn
Việt Báo (Theo_DanTri)